Tuesday, October 18, 2011

Con Đường Giao Chỉ

                                                                                            Trung Quang
Hai chữ Giao Chỉ nhắc lại một sử tích đặc biệt cho Việt tôc và một hình ảnh quái dị mà người Tàu tạo cho dân Việt. Rất tiếc là một số sử gia Việt Nam đã tiếp tục truyền tụng cái sai lạc này.
Thật ra danh từ Giao Chỉ phản ảnh cái địa danh và triết lý uyên thâm của Việt tộc : Giao là giao long, tức là cá sáu hay thuồng luồng ở sông biển vùng đất người Bách Việt sinh sống. Việt tộc đã thần thoại hóa con vật này thành ra Rồng là một trong hai vật biểu của dân tộc trong truyền thuyết Rồng Tiên. Chỉ là dấu chân in trên đất hay là nơi chốn cư trú của dân Bách Việt như trong từ địa chỉ.
Sau hơn một ngàn năm cố tình đồng hóa dân Việt thất bại, người Tàu bèn sáng tạo huyền thoại quái dị rằng Việt tộc có hai ngón chân cái giao lại với nhau, với ẩn ý là Việt tộc đã không còn tồn tại trên mảnh đất Trung Nguyên này nữa, vì chẳng có người Việt nào có hai ngón chân cái giao lại với nhau cả. Người Tàu tự cho chỉ một mình họ là văn minh thôi. Các dân tộc khác đều là mọi rợ. Nhưng Khổng Tử định nghĩa văn minh như sau " Khoang nhu dĩ giáo, bất báo vô đạo", nghiã là không dùng bạo lực để cai trị mà dùng khoang nhu để giáo huấn. Bên trời Tây, Platon cũng nói : "Có văn minh mổi khi ta dùng huấn dụ thay cho bạo hành". Vậy hầu hết các quốc gia trên thế giới gồm cả Trung Quốc, chưa đạt tới một nền văn minh thật sự mà chỉ có một nền kỷ thuật phát triển thôi.
Điều quan trọng thứ hai là người Tàu muốn xóa bỏ hình ảnh của một dân tộc có một nền văn hóa cao siêu ít nhất là từ 2879 TC (TC = thời củ = BC). Cái triết lý cao siêu của Việt tộc là Trời giao thoa với Đất qua con Người trong thuyết Tam Tài, một phần của thuyết Âm Dương. Thuyết âm dương này dung hòa hai thế đối lập với nhau như Âm và Dương, hay Vô và Hửu, một luồng tư tưởng rất khác với các luồng tư tưởng hoặc thuần duy lý hoặc thuần duy tâm của Tây phương. Nó đã hướng dẫn Việt tộc trên con đường dựng nước và giữ nước với chủ trương một xã hội hòa hợp giữa con người trong cùng một dân tộc và giữa các dân tộc khác nhau trong nhân loại.
Theo huyền thoại nước Văn Lang được cai trị theo tinh thần Kinh Dịch âm dương hòa. Vậy con đường Giao Chỉ là con đường của nhân loại thái hòa và thịnh vượng trong tương lai. Đã hơn 5.000 năm lịch sử, nhân loại traỉ qua nhiều chế độ khác nhau như phong kiến chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa, tư bản chủ nghĩa và cộng sãn chủ nghiã. Không một chủ nghiã nào giải quyết vấn đề xã hộì loài người một cách tương đối ổn thỏa, vì không một chế độ nào có một nền văn minh thật sự, dù nền kỷ thuật của họ rất tiến bộ. Bất công xã hội và chiến tranh tương tàn vẫn tiếp diễn mổi ngày mổi tàn bạo hơn. Giai cấp bị bốc lột tiếp tục trở thành giai cấp bốc lột sau khi họ tự giải phóng! Hiện tượng bất công vẫn tồn tại mặc dù nhiều quan niệm tiến bộ hơn và văn minh hơn tiếp tục phát triển để che giấu cái tình trạng dã man mạ vàng ngấm ngầm tiến triển.
Ta hảy tự hỏi nhau "chúng ta chỉ có văn minh trong tư tưởng hay trên lý thuyết mà thôi chăng?" Có phải chăng chúng ta đang ở trong cái mà người Maya đã xác định  chu kỳ quyền lực trong đó bạo lực xóa bỏ nhân quyền? Hiện tại hơn bao giờ hết chúng ta cần một chế độ văn minh hơn, công bằng hơn, vì nhiều dấu hiệu cho thấy thế giới đang đi dần vào sự tự hủy diệt bằng các vũ khí hạch nhân, hóa học hay vi trùng học có sứ tàn sát tập thể vạn năng. Có phải chế độ đó sẽ đưa chúng ta vào Chu kỳ đạo đức mà người Maya đã tiên đoán hơn hai ngàn năm, trong đó cái quyền con người được tôn trọng trên thế giới vào ngày 21 tháng 12 năm 2012?
    A-Thuyết Âm Dương và huyền thoại Rồng Tiên của Việt tộc
Có thuyết cho rằng Việt tộc tin vào thời nguyên sơ chỉ có một khối thủy khí mênh mông vô hình vô dạng, vô màu vô sắc, trong đó Âm và Dương biến khối thủy khí thành nước, đất, kim loại, lửa và cây. Chúng được gọi là ngũ hành và luôn luôn trực tiếp hay dáng tiếp chuyển hóa với nhau tạo ra Tam Tài, tức là Trời-Người-Đất, rồi vận chuyển vô lường tạo ra vũ trụ. Thuyết âm dương có hai định luật :
1- Không có gì hoàn toàn âm hay hoàn toàn dương cả, trong dương có âm, trong âm có dương.
2- Âm và dương gắn bó mật thiết, vận động và chuyển hóa cho nhau. Âm cực sinh dương. Dương cực sinh âm.
Ví dụ : Hydrogene là một nguyên tử đơn giản nhất gồm một proton mang dương điện ở trung tâm nguyên tử và một électron mang âm điện ở vòng ngoài. Electron quay chung quanh proton theo một quỷ đạo  vòng tròn cố định và không thoát khỏi quỷ đạo này, vì có sức hút điện năng tỉnh lực (attracraction électrostatique) của proton ở trong trung tâm nguyên tử. Proton và électron ở trong một trạng thái thăng bằng năng động bền vửng .
Trong cấu trúc vật chất cũng như xã hội loài người phải có một quân bình nào đó để tồn tại và phát triển. Cái nguyên lý này thể hiện trong truyền thuyết Rồng Tiên. Đây chỉ là một chuyện thần thoại có từ thời Lạc Long Quân, họ Hồng Bàng. Mục đích câu chuyện là truyền cho con cháu một bài học về cách cư xữ giữa con người trong cùng một xã hội với nhau. Có kẻ cho nó là chuyện thần thoại hoang đường đáng bỏ đi. Đó là quan điểm thuần túy duy lý của Tây phương chứ không phải huyền sử của Đông phương. Vậy truyền thuyết huyền thoại phản ảnh cái gì? Augustine Thière (thế kỷ XIX) viết : "Lịch sử thật chỉ tìm thấy trong các giai thoại truyền kỳ, đó là sử dân gian truyền tụng sống động. Thật vậy, truyền thuyết không hẳn là sự thật lịch sử, nhưng những nhân vật, những chứa đựng trong truyền thuyết là sãn phẩm đúc kết biết bao suy tư của một thời đại tạo dựng độc sáng nhưng nó còn chờ người đời sau diễn đạt bằng ngôn ngữ minh nhiên lý giải"  (Phạm Trần Anh).
Trước thế kỷ 19, nhà văn hào Homère đã nổi danh vì trường ca bất hủ Illiade và Odyssée. Năm 1870, nhà khảo cổ Đức Heimrich Schiemann khai quật vùng đất của chiến tranh thành Troie. Các anh hùng thần thoại trở thành những nhân vật có thật trong trận chiến giữa dân Hy Lạp và dân thành Troie vào năm 1250 TC (BC). Huyền sử họ Hồng Bàng của Việt tộc chưa được khaỏ cổ học xác nhận. Tuy nhiên cái bửu bối của truyền thuyết Rồng Tiên là truyền lại cho con cháu nhiều quan niệm cấp tiến vượt thời gian và không gian. Sử truyền ông Lạc Long Quân gốc Rồng lấy bà Âu Cơ gốc Tiên sinh ra trăm trứng. Trứng nở trăm con. Năm mươi (50) con theo Cha xuống biển sâu. Năm mươi (50) con theo Mẹ lên núi cao, rồi cùng nhau bầu người anh cả lên ngôi vua và khởi lập họ Hồng Bàng. Con số 50-50 phản ảnh nhiều quan niệm đặc sắc trong huyền sử này:
   1-Bà Âu Cơ tức là Tiên hay Chim, đẻ 100 trứng :
Huyền thoại người đẻ ra trứng cũng tìm thấy trong huyền thoại Hy Lạp. Chuyện thần Zeus hóa trang ra con thiên nga để tư tình với bà Léda, vợ của nhà vua Sparta và đẻ ra một trứng. Trứng nở ra một gái tên là Hélène, người đẹp nguyên nhân của chiến tranh thành Troie. Truyện thần thoại của Hy Lạp phô diễn một chuyện tình sử vụng trộm, sức mạnh và chiến tranh tan tóc điêu tàn. Huyền sử của Việt tộc thanh cao hơn là chuyện phàm phu tục tử. Nó tượng trưng cho một quan niệm mà loài người mãi mãi hướng về : Đó là Bình Đẳng Xã Hội Chủ Nghĩa. Thật vậy, huyền sử không hề nói ông Lạc Long Quân hay bà Âu Cơ cư xữ thiên lệch giữa các con như hầu hết các dân tộc khác đã làm.
Cuộc cách mạng Pháp quốc 1789 đề cao "Tự Do, Bình Đẳng  và  Tình Huynh Đệ" . Tự Do được tôn thờ. Còn Bình Đẳng và Tình Huynh Đệ chỉ được nghe thoang thoảng ở các thánh đường mà thôi.  Trái lại, dân Giao Chỉ sống và thực thi cái chính sách tìm ẩn  Bình Đẳng Chủ Nghĩa này ngay từ thời Hồng Bàng qua chính sách "Công điền công thổ", nghiã là mổi ngườì dân khi đến tuổi trưởng thành (18 tuổi) nhà vua cấp cho một số ruộng đất bằng nhau để sinh sống và nuôi gia đình mà Giáo sư Lương Kim Định gọi là Bình Sãn. Chúng tôi gọi nó là "Bình Đẳng Kinh Tế Chủ Nghĩa". Đời nhà Chu bên Tàu cũng có chế độ tương tự gọi là "tỉnh điền", trong đó người dânTàu phải trả một giá nào đó cho nhà Chu hằng năm. Vậy đó là ruộng đất cho thuê dài hạn. Khi đến tuổi
năm mươi (50) thì người dân Tàu phải trả ruộng đất lại cho nhà vua (Trần Trọng Kim). Dân Giao Chỉ không phải trả ruộng đất lại cho vua Việt khi họ đến tuổi 50 hay lớn hơn. Ruộng đất đó thuộc về con cháu họ vỉnh viễn.
Maỉ đến thế kỷ 18, ở tận trời Tây, Jean Jacques Rousseau ở Pháp quốc mới phát ra câu : "L'homme est né égal", nghĩa là mọi người sinh ra bình đẳng ( hơn 3.000 năm sau chính sách "công điền công thổ" của Việt tộc).
   2- Năm mươi con (50) theo Cha xuống biển sâu :
Câu chuyện ly biệt này phản ảnh nhiều sự thật khác nhau :
Nhiều nhà khảo cổ Tây phương khám phá ra rằng người Bách Việt xưa gồm hai nhóm chính: một nhóm sống trên rừng núi (Marais des jungles) và một nhóm sống ven biển (Marais des maritimes).  Nhóm sống trên núi cao còn gọi là dân miền thượng du hay vắn tắt là "Người Thượng". Nhóm sống ven biển gọi là "Người Kinh". Dân Việt thường nói "Núi sông một nhà". Vậy truyền thuyết "50 con theo Cha xuống biển, 50 con the Mẹ lên núi" phản ảnh một bí quyết tuyệt vời qua mặt kẻ thù để truyền lại cái sự thật cho con cháu
5.000 năm về sau.  Hai nhóm "dưới biển" và "trên núi" là anh em một nhà.
Đứng về phương diện triết lý, 50 con theo Cha (dương) xuống biển sâu (âm)
50 con theo Mẹ (âm) lên núi cao (dương) phản ảnh cái thế quân bình năng
động bền vững của thuyết âm dương (trong dương có âm, trong âm có dương). Về triết lý nhân sinh thì huyền thoại truyền khẩu đó phản ảnh cái thực tại của con người bị chi phối bởi luật tạo hóa rất ác nghiệt : Hợp rồi Ly,
Ly rồi Hợp hay là Sinh, Lão, Bệnh, Tử mà không một ai thoát khỏi! Một Gilgamesh ở xứ Uruk, Babylone (Iraque hiện tại) đã thất bại thê thảm trong việc đi tìm trường sinh. Tần Thủy Hoàng đi tìm thuốc trường sinh phải chết vì độc dược.
    3-Năm mươi con theo Mẹ lên núi và bầu người anh cả lên làm vua:
Điều này thể hiện cái "Giao Chỉ Nhân Quan", tức là Dân Chủ tự giác, Tự Do và Quyền Tự Quyết Định Vận Mạng của mổi cá nhân. Huyền sử không nói Mẹ Âu Cơ chỉ định bầu cho ai hay khuyên bầu cho đúa con nào cả.  Các con tự do, tự giác và tự quyết định bầu anh cả lên làm vua mà không tranh giành
quyền lợi ganh tị hảm hại lẫn nhau. Đó là một vết son trong huyền sử Giao Chỉ rất khác với hầu hết các dân khác. Nó phản ảnh cái quan niện "Nhân Bản Việt Tộc". Đó là "Nhơn chi sơ vốn bản thiện", nghĩa là con người sinh ra vố nhân hậu. Mải đến thế kỷ 18, tận bên trời Âu, nhà hiền triết Jean Jacques Rousseau mới thốt ra câu : "L'homme est né naturellement bon "  (con người sinh ra vốn nhân hậu). Ông đi xa hơn "C'est la société qui l'a
corrompu (xã hội làm ung thối nó). Thật thế xã hội bất công đã cướp cái
quyền bình đẳng của nó, buộc nó phải phạm tội như những người khác để tự tồn và phát triển.
4-Ông Lạc Long Quân và bà Âu Cơ chia nhau làm nhiệm vụ của cha mẹ Việc Ông Lạc Long Quân lo nuôi con và giáo dục con có thể hiễu được ở
thế kỷ 20 này. Chứ việc bà Âu Cơ được giao trọng trách dựng nước và giữ nước là một việc chưa bao giờ xảy ra ở xã hội loài người cho đế thế kỷ 21  này. Đó là Nam Nữ Bình Đẳng Giao Chỉ Đặc Điểm. Hai Bà Trưng Trắc và Trưng Nhị đã nối gót Mẹ Âu Cơ trong nhiệm vụ giữ nước nhưng không dựng nước vào năm 40 TM (AD). Bà Thatcher ở Anh quốc và Bà Golder Meir ở Do Thái vào thế kỷ 20 chỉ quản trị quốc gia chứ không có công dựng nước và giữ nước như Mẹ Âu Cơ vào năm 2879 TC (BC).
    B- Bình Đẳng Chủ Nghĩa
Thuyết âm dương và huyền thoại Rồng Tiên cho thấy vũ trụ quan và nhân sinh quan của dân Giao Chỉ. Thuyết Tam Tài giúp tổ tiên am hiểu cái thế đứng của con người giữa Trời và Đất cùng cái liên hệ quan trọng giữa các con người với nhau. Tổ tiên đã thấu hiểu cách tổ chức xã hội loài người sao cho được thanh bình và thịnh vượng để tự tồn và phát triển. Ta có thể nói Việt tộc đã vào chu kỳ đạo đức từ năm 2879 TC  Cái quan niệm chủ đạo để thành công là sự quân bình trong xã hội, nghĩa là bình đẳng  giữa
mọi con người với nhau, nhất là bình đẳng kinh tế.
Lý do của quan niệm Bình Đẳng là, từ thời khai thiên lập địa đến bây giờ  con người ý thức được không một ai tự tồn và phát triển một mình được. Tự  tồn và phát triển đòi hỏi sự đoàn kết của một tập thể , dù đó là một gia đình,
họ hàng, bộ lạc hay quốc gia. Do đó, tự xưng "thiên tử" (nhà Chu bên Tàu) để chiếm hửu tất cả của cải của một tập thể là đi ngược lại lẽ phải và thiên nhiên. Đó là một hành động bốc lột. Chúng ta cùng mổ xẽ tư tưởng xã
hội của tổ tiên để cùng học hỏi rồi vạch một lối đi chung cho dân tộc và toàn
thể nhân loại.
   1-Tư tưởng dẫn đạo chính trị :
Thuyết âm dương cho thấy hai thành tố âm và dương luôn vận chuyển cho nhau. Do đó tổ tiên quan niệm âm không xấu mà dương cũng không tốt. Xấu
tốt là do sự quân bình bền vững giữa hai bên. Xã hội loài người cũng vậy. Muốn được thanh bình và thịnh vượng, con người phải có sự quân bình xã hội, tức là bình đẳng với nhau ở mọi mặt, nhất là mặt kinh tế.  Bất bình đẳng
gây tội ác xã hội, chế độ nô lệ và chiến tranh diệt chủng. Căn bản con người nô lệ là nó bị cướp mất cái quyền bình đẳng của nó với người trong cùng một xã hội. Bình đẳng là bà mẹ vú sửa nuôi hai đứa con Dân Chủ và Tự Do. Khi bà mẹ vú sửa bị đàn áp thì hai đứa con dân chủ và tự do không thể nào phát triển khỏe mạnh được, nghĩa là dân chủ tự do giả hiệu hay dân chủ tự do theo điều kiện giai cấp thống trị cho phép. Nôm na mà nói là "Tôi và Anh Chủ Nghĩa". Tôi có quyền thì Anh cũng có quyền như Tôi. Cái quyền  đòi hỏi cái bổn phận phải tôn trọng cái quyền của kẻ khác. Chúng ta không thể sống lẽ loi một mình mà tự tồn và phát triển được. Do đó ngay từ thời tiền sử con người tập hợp lại từng gia đình. Người gia trưởng có bổn phận   điều hành mọi công tác và phân phối mọi thành phẩm công bằng. Khi nhiều
gia đình hợp lại thành họ hàng thì người gia trưởng nào có khả năng lảnh  đạo  nhất được đề cử làm tộc trưởng để điều hành và bảo vệ quyền lợi của
họ hàng. Nhiều họ hàng hợp lại thành bộ lạc. Một người đàn ông tráng kiện
và mưu lược nhất giữ vai trò tù trưởng với cùng một nhiệm vụ. Rồi tù trưởng
dũng mảnh nhất kết nhiều bộ lạc thành quốc gia. Nhưng tiếc thay người  lảnh đạo quốc gia tự xưng là "thiên tử" (con Trời) với sứ mạng cai trị dân .
Ông cưởng chiếm mọi tài sãn của cải quốc gia cho riêng ông và gia đình ông
Quyền bình đẳng cá nhân bị tước đoạt bằng bạo lực. Bất công bắt đầu. Tội 
ác nẩy nở. Ông ban ân huệ cho một số người phục tùng ông để mưu đồ  bảo
vệ quyền lợi tư riêng theo khuôn mẩu cha truyền con nối. Ông tạo ra một
quan hệ sã xuất bất công để giữ vững ngôi thiên tử.
Cái mẩu số chung trong các chế độ từ xưa đền nay là "cai trị dân" với "quan hệ sãn xuất bất công".  Tư tưởng nhân loại tiếp tục phát triển và đã đưa  đến
quan niệm Tự Do và Dân Chủ. Nền dân chủ đã và đang tràn lan khắp thế giới và giải phóng một số lớn con người. Tuy nhiên tội ác và chiến tranh vẫn
tiếp tục với dẩy đầy bất công, dù ở ngay các quốc gia tự nhận có nền dân chủ
gương mẩu nhất. Dân chủ thì có, nhưng tội ác và chiến tranh vẫn còn.  Câu hỏi là "Tại sao?".
Nếu quan sát xã hội kỷ lưởng hơn, ta sẽ thấy những điều sau đây :
   a-Nền dân chủ còn nằm trên lý thuyết nhiều hơn là trên thực tế. Nhiều quốc gia chưa có dân chủ mặc dù họ tự nhận có dân chủ.
Theo định nghĩa "dân chủ là điều kiện xã hội bình đẳng và tôn trọng cá nhân
trong cộng đồng" (Democracy is a social condition of equality and respect
for the individual within the community", American Heritage Illustrated
Encyclopedic Dictionary). Ta thấy rõ rằng Bình đẳng là điều kiện tiên quyết
để có dân chủ. Tôn trọng cá nhân khác (respect for the individual) phản ảnh
cái nghĩa vụ. "Quyền" phải đi đôi với "Nghĩa vụ" tôn trọng cái quyền của kẻ
khác. Bầu cử là bước đầu căn bản của dân chủ. Thể thức bầu cử phản ảnh cái
quan niệm đứng đắn cuả nền dân chủ thực sự. Nhưng bầu cử chỉ là một trong nhiều điền kiện "Cần" và Đủ" cuả một nền dân chủ thật sự . Nếu bạo lực quân sự hay kinh tế chà đạp quyền bình đẳng thì bầu cử chỉ là hình thức giả tạo lừa gạt.
   b-Cái quan hệ sãn xuất còn rất bất bình đẳng. Chính cái quan hệ sãn xuất
bất bình đẳng là nguồn gốc của tội ác xã hội và chiến tranh. Ta có thể nói một cách chính xác rằng :
"Quan hệ sãn xuất bất công còn, tội ác xã hội còn và chiến tranh còn."
Quan niệm Anh Cả (Big Brother) lo cho mọi người là một quan niệm sai lạc,
dẫn đế độc tài quân phiệt và phản ảnh chính xác chính sách "Cai trị dân" với
"Quan hệ sãn xuất bất công". Chính sách "Cai trị dân" và "Quan hệ sãn xuất
bất bình đẳng" đã hoàn toàn thất bại đem lại hòa bình hạnh phúc cho nhân loại hơn 5.000 năm lịch sử. Mổi ngày chiến tranh càng tàn bạo hơn và càng
dã man hơn với sức tiêu diệt vạn năng của vũ khí hóa học, vi trùng học và hạt nhân. Loài người đi xa dần nền văn minh mặc dù tiến bộ kỷ thuật vượt
bực để thầm lặng trở về với "tình trạng dã man mạ vàng". Vậy cần "một ngọn sống thần tư tưởng đổi mới" đề nghị rằng đã đến lúc chính sách "Cai trị dân" phải nhường chổ cho một chính sách tiến bộ hơn, văn minh hơn : Đó là
"Dân Chủ Quản Trị". Chính sách đề nghị này bao gồm cơ sở bình đẳng trong công tác sãn xuất với phân chia quyền lợi hợp lý hơn.
    II-Tư tưởng dẫn đạo kinh tế :
Bình Đẳng Kinh Tế Chủ Nghĩa đặt nền móng trên nguyên tắc "Dân chủ quản trị". Con người sinh ra không giống nhau về mọi phương diện. Có người sinh ra với nhiều khả năng trí tuệ hơn khả năng bắp thịt. Có kẻ sinh ra với nhiều khả năng bắp thịt hơn khả năng trí tuệ. Nhưng trong công tác sãn xuất gồm phương pháp chia công thích hợp cho mổi cá nhân thì người trí thức hay anh lao động đều có một giá trị thích nghi, vì công tác sãn xuất cần cả hai năng lực trí thức và lao động.
Đứng về phương diện tinh thần, chúng tôi không nghĩ rằng có một Thượng Đế nào mà bất công đến nổi sinh ra con người này để làm nô lệ cho
con người kia. Chúng tôi tin rằng giàu hay nghèo là do cái quan hệ sãn xuất bất bình đẳng và sự phân phối bất công tổng sãn lượng tài nguyên thiên nhiên giữa các tầng lớp trong cùng một quốc gia hay giữa các quốc gia trên thế giới.  Tài nguyên thiên nhiên của mổi quốc gia là thiên định. Nhưng có thể thay đổi do bạo lực xâm lược dưới nhiều hình thức. Cái quan hệ sãn xuất bất bình đẳng giúp cho lợi nhuận của giai cấp thống trị tăng rất nhanh trong khi quyền lợi của giai cấp bị trị không tăng mà còn bị giảm. Do đó năng xuất sãn xuất của giai cấp bị trị không được khuyến khích mà còn bị đình trệ vì họ nghĩ rằng làm nhiều trong quan hệ sãn xuất bất công chỉ làm giàu thêm cho giai cấp thống trị.
Danh từ mỹ miều "Làm chủ tập thể" không hấp dẫn được mấy ai. Đó là lý do thất baị của cuộc cách mạng Xô Viết sau 72 năm thành công.  Chủ tịch Kroutchev và Gorbachev không ngần ngại sửa sai với Chính Sách Xét Lại , Glasnost và Petroiska. Bình Đẳng Kinh Tế chủ nghĩa sẽ giaỉ tỏa cái ứ động
triền miên năng lực sãn xuất của mọi con người.
Lịch sử cho thấy sự sai lầm của chủ trương "Tư hửu sinh bốc lột". Tư hửu trong quan hệ sãn xuất công bằng không sinh bốc lột. Chính cái quan hệ sãn xuất bất bình đẳng mới sinh ra bốc lột, vì nó tiếp tục tạo một sự chênh lệch khổng lồ về tư hửu giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Cái chênh lệch khổng lồ này là nguồn gốc của tội ác xã hội và chiến tranh điêu tàn.  Khi bình đẳng kinh tế là quốc sách thì cái quan hệ sãn xuất bất bình đẳng "Chủ và Thợ" phải được thay thế bằng một quan hệ sãn xuất bình đẳng tiến bộ hơn
"Chủ và Cộng sự viên" trên nguyên tắc "Anh có của, Tôi  có công. Chúng ta hợp tác sãn xuất và cùng hưởng lợi".
Chúng tôi trình bày lý do tại sao quan hệ sãn xuất hiện tại là quan hệ sãn xuất bất bình đẳng và đề nghị giải pháp sửa chửa :
Mọi công tác sãn xuất đều dựa trên hai yếu tố căn bản là Vốn (V) và Người (N) hay Nhân lực. Công thức sẽ là :
     V + N  =  SX                [SX = Sãn Xuất]                                (1)
    TL        =   TT -  (V + N)  [TL = Tiền Lời]                              (2)
                                              [TT = Tiền Thu]
Chủ có vốn (V), nhưng không có nhân lực (N). Vậy Chủ không thể nào sãn xuất đại quy mô được. Cộng sự viên có nhân lực (N), nhưng không có vốn (V). Vậy Cộng sự viên cũng không thể nào sãn xuất đại quy mô được. Do đó Chủ và Cộng sự viên phải cộng tác để sãn xuất đại quy mô.
Chúng ta thấy Chủ và Cộng sự viên như Âm với Dương phải vận chuyển cho nhau trong công tác sãn xuất. Hợp tác chính là sự quân bình năng động bền vững giữa âm và dương (ở đây giữa chủ và công sự viên). Thành phẩm (TP) sãn xuất là do Vốn và Nhân lực (công thức 1). Vậy mổi thành phần trong thành phẩm phải được chia phần theo nguyên tắc sau đây :
   1-Vốn (V) là năng lực sãn xuất cố định được chia phần theo lãi xuất đương
thời.
   2- Người hay Nhân lực (N) là năng lực sãn xuất sinh động. Chủ và tất cả cộng sự viên đều được hưởng bốn (4) thù lao sau đây :
    a-Thù lao căn bản :
Thù lao căn bản là chi phí cần thiết để bảo đảm sức khỏe cá nhân để tiếp tục sãn xuất. Tiền thù lao này sẽ đồng đều cho chủ và cộng sự viên không phân biệt già trẻ, trai gái, mới củ, trí thức hay lao động chân tay.
    b-Thù lao năng xuất sãn xuất cá nhân :
 Thù lao năng xuất sãn xuất cá nhân dựa trên nguyên tắc "Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít". Có hai loại năng xuất sãn xuất cá nhân : Năng xuất sãn xuất cá nhân chỉ huy và Năng xuất sãn xuất cá nhân thực hiện . Năng xuất sãn xuất cá nhân chỉ huy là do các giám đốc nhà máy hay đồ án sãn xuất. Năng xuất sãn xuất thực hiện là các cộng sự viên thừa hành công tác sãn xuất. Thù lao tột đỉnh cho hai loại năng xuất sãn xuất này không quá sai biệt .
    c- Thù lao khả năng tăng năng xuất sãn xuất cá nhân :
Thù lao này có mục đích khuyến khích học hỏi (bằng cấp), trao dồi nghề nghiệp hay sáng kiến phát minh để tăng thêm năng xuất sãn xuất.
    d- Tiền lời hằng năm :
                 TL = TT - (V = N)                                  (2)
Công thứ (2) cho thấy thành phẩm (TP) do Vốn (V) và Nhân Lực (N) làm ra nên Chủ và tất cả Cộng sự viên phải được chia tiền lời hàng năm theo công thức đã thỏa thuận trước hoặc do Ủy Ban Kinh Tế Quốc Gia quyết định.
Dần dần cộng sự viên sẽ sung túc hơn về tiền bạc. Họ có bổn phận phát triển thêm cơ sở sãn xuất bằng cách đầu tư một phần lợi nhuận hằng năm vào vốn của xí nghiệp. Sau mổi năm mọi người đều có các thù lao sau đây :
   ttl =  a + b + c + d + e                                     (3)
           ttl = Tiền thù lao
            a =  Tiền thù lao căn bản
            b =  Tiền thù lao năng xuất sãn  xuất cá nhân
            c =  Tiền thù lao tăng năng xuất sãn xuất cá nhân
            d =  Tiền lời hàng năm chia cho mổi cá nhân
            e =  Tiền lời do đầu tư một phần tiền chia cuối năm vào xí nghiệp
Năm đầu dịch vụ sãn xuất, cộng sự viên chưa đầu tư vào xí nghiệp, công thức sẽ là :
          ttl  =  a + b + c + d                    [e = 0]     (4)
Nếu ai (chủ hoặc cộng sự viên) không có tăng năng xuất sãn xuất cá nhân thì công thức sẽ là :
          ttl  =  a +b + d + e                     [c = 0]     (5)
Sau nhiều năm cộng tác sãn xuất, mổi cộng sự viên có khả năng cung cấp cho con mình học cao để trở thành kỷ sư, bác sĩ hay chuyên viên cao cấp các ngành khác. Khi trình độ dân tăng, năng lực sãn xuất tăng. Nước nhà thêm phú cường. Dân làm ít giờ hơn (ví dụ 6 giờ mổi ngày), nhưng lảnh nhiều tiền hơn. Dân có nhiều giờ rảnh với gia đình để lo cho con cái ăn học thành tài. Tệ hại xã hội như trộm cắp, biển thủ công quỷ quốc gia, tham nhũng hay giết người cướp của sẽ giảm thiểu tối đa vì mọi người đều có tư hửu dồi dào. Tâm lý cho thấy con người khi có tư hửu sung túc sẽ sống lương thiện để tận hưởng cái thành quả hơn là phạm tội phải mất tài sãn và ngồi tù khổ đau.
Tư hửu phổ biến dồi dào không tiêu diệt được cái óc thống trị của con người. Nhưng nó sẽ vô hiệu hóa cái óc thống trị đó vì không còn ai chấp nhận đi chết hay gây tội ác cho óc thống trị phát triển để nô lệ hóa thêm người đồng loại. Trái lại, nó sẽ hợp tác để thủ tiêu cái óc thống trị khi mới chớm nỡ. Do đó ta có thể nói :
"Khi mọi người CẦN có đủ, TỘI ÁC ra đi, CHIẾN TRANH tận diệt."
III- Bổn phận và Quyền lợi của mọi công dân :
Khi cần phục vụ quốc gia như tòng quân nhập ngũ hay đảm nhiệm chức vụ trong chính quyền Chủ hoặc Cộng sự viên tiếp tục hưởng mọi quyền lợi như còn đang sãn xuất tại xí nghiệp, vì phục vụ quốc gia là tiếp tục phục vụ xí nghiệp trong một cương vị khác. Khi trở về với đời sống dân sự, họ đương nhiên trở lại nhiệm vụ củ hay tương đương. Đường lối tổ chức này có rất nhiều lợi điểm cho cá nhân, gia đình, xí nghiệp và quốc gia :
   a- Lợi điểm cho cá nhân và gia đình :
1- Cộng sự viên được bảo đảm tài chánh khi phục vụ quốc gia.
2- Khi trở về đời sống dân sự họ không bị nạn thất nghiệp.
3- Gia đình không bị đổ vở kinh tế khi cộng sự viên đi làm nghiã vụ nhất là đầu quân nhập ngũ.
   b- Lợi điểm cho xí nghiệp :
1- Cộng sự viên hết lòng sãn xuất với năng xuất gia tăng.
2- Phá hoại cơ sở sãn xuất tận diệt vì đó là nguồn lợi chính của họ.
   c- Lợi điểm cho quốc gia :
1- Chính phủ chỉ trả tiền thù lao chức vụ và hiểm nguy thôi.
2- Không có siêu cao thuế nặng vì chi phí quốc gia và quốc phòng giảm.
3- Nạn tham nhũng, hối lộ, thâm thủng ngân quỷ giảm thiểu tối đa hay triệt tiêu.
4- Tệ nạn đình công bải thị hay giai cấp đấu tranh triệt tiêu.
5- Khuynh hướng phản bội tổ quốc chấm dứt.
6- Quỷ cứu trợ quốc gia hay an sinh xã hội giảm thiểu. Nó chỉ dành cho một thiểu số sinh ra tật nguyền, bị tai nạn liệt bại cơ thể hoặc bệnh kinh niên trầm trọng không sãn xuất được.
IV- Tổ chức quốc gia :
Chế độ chính trị kinh tế mới đòi hỏi một tổ chức quốc gia thích hợp mới.
A- Hành pháp : Chính phủ điều hành quốc gia chứ không cai trị như xưa. Áp dụng luật lệ nghiêm khắc và vô tư để điều hành quốc gia do dân ủy nhiệm. Người điều hành quốc gia có thể ví với ông nhạc trưởng và quốc gia như ban nhạc gồm nhiều loại nhạc công khác nhau.
B- Lập pháp : Thảo Hiến Pháp và luật lệ cần thiết cho công tác điều hành quốc gia.
C- Tư Pháp : Áp dụng luật lệ vô tư và công bằng để giải quyết mọi vi phạm luật lệ một cách nghiêm khắc để duy trì an ninh trật tự.
D- An ninh quốc gia : Bảo vệ quốc gia.
Ngành Hành Pháp gồm có :
1- Phủ Tổng Điều Hành  gồm một Tổng Điều Hành Viên (thay thế cho Tổng Thống củ) thi hành nhiệm vụ do toàn dân đồng quyết trao cho với tất cả mọi uy quyền và phương tiện cần thiết.
Phó Tổng Điều Hành Viên, phụ tá Tổng Điều Hành Viên.
2- Các Bộ đứng đầu là các Tổng Trưởng chịu trách nhiệm với Tổng Điều Hành Viên và Quốc Hội và quốc dân. Dịch vụ Y Tế và Giáo Dục sẽ miễn phí vì đã có thuế toàn dân đóng.
Tổng Điều Hành Viên được chọn theo phổ thông đầu phiếu với đa số tương đối cho một nhiệm kỳ 7 năm. Ông có thể tái ứng cử hai lần. Tái ứng cử lần thứ ba phải có 75 % dân chấp thuận hay yêu cầu.
Ông không có quyền giải tán quốc hội do toàn dân bầu, vì làm như thế là vi phạm nguyên tắc dân chủ. Ông có quyền bổ nhiệm các Tổng Trưởng theo nhu cầu mà không qua quốc hội phê chuẩn. Ông không có quyền bổ nhiệm Tổng Trưởng Tư Pháp. Nhưng ông có quyền đề nghị Quốc hội thay thế vị Tổng Trưởng này. Ông có thể bị truất phế bởi Quốc hội nếu ông phạm tội phản quốc.
Tổng Trưởng Tư Pháp được chọn theo phổ thông đầu phiếu vói đa số tương đối cho một nhiệm kỳ 5 năm. Tái ứng cử không bị hạn chế. Ông chịu trách nhiệm trước quốc dân, Tổng Điều Hành Viên và Quốc Hội.
Dân biểu Quốc Hội được chọn theo phổ thông đầu phiếu với đa số tương đối cho mộ nhiêm kỳ 4 năm. Tái ứng cử không bị hạn chế.
Tất cả ứng cử viên vào nhiệm vụ chính phủ phải đưa ra lời hứa của mình trên đơn ứng cử. Khi đắc cử và tuyên thệ nhậm chức phải long trọng tuyên thệ thi hành tất cả những lời hứa trong vòng hai năm đầu và hứa sẽ tự giác từ chức nếu không thi hành lời hứa vì bất cứ lý do gì. Không thi hành được lời hứa là thiếu khả năng lảnh đạo hay lừa gạt dân. Nếu không tự giác từ chức thì chính phủ thi hành biện pháp giải nhiệm tức khắc.
V- Áp dụng Bình Đẳng Xã Hội Chủ Nghĩa :
Hơn 5.000 năm, con người không theo lời Thượng Đế. Con người đã phạm quá nhiều tội lổi, kẻ ít người nhiều. Vậy loài người phải tự giác ngộ và tha thứ cho nhau để xây dựng lại nền văn minh nhân loại mới.
Theo truyền thống dĩ hòa vi quý và nhân đạo, Việt tộc xây dựng Bình Đẳng Chủ Nghĩa bằng một cuộc CÁCH MẠNG TÌNH THƯƠNG gồm các điều khoảng sau đây do một ỦY BAN BÌNH ĐẲNG LÂM THỜI  thi hành :
   1- Tổng Khoan Hồng mọi người : Tất cả tù nhân bất cứ vì lý do gì đều  được trả tự do với điều kiện hứa sẽ không tái phạm sau khi được khoan hồng
Họ được cho biết là nếu tái phạm họ sẽ bị nghiêm khắc trừng trị.
   2- Tuyệt đối không được xâm phạm tài sãn của cải của một ai vì một lý do gì cả.
   3- Tuyệt đối không trả thù cá nhân hay tập thể vì bạo lực chỉ đem lại bạo lực mà thôi.
   4- Mọi tư tưởng sẽ được tôn trọng, trừ tư tưởng ngược với Bình Đẳng Xã Hội Chủ Nghĩa và làm suy đồi giá trị đạo đức con người. Tự do tín ngưởng phải được bảo đảm. Mọi tôn giáo đều được tôn trọng như nhau.
   5- Chủ nhân tự nguyện sãn xuất theo nguyên tắc "Anh có của, Tôi có công. Chúng ta cộng tác sãn xuất và cùng hưởng lợi". Nếu chủ nhân nào không chấp nhận chính sách sãn xuất nêu trên thì họ phải được toàn quyền tự sãn xuất lấy.
  6- Mọi công dân già trẻ, trai gái đều dược coi là "thiên tử" với tất cả quyền luật định. Công dân nào phạm trọng tội sẽ mất quyền ứng cử vào các chức vụ quan trọng trong xã hội.
  7- Mọi công dân đều là chủ mọi tài sãn quốc gia và có bổn phận bảo vệ gìn giữ tài sãn đó trong thời bình cũng như trong thời chiến.
  8- Mọi công dân phải tuyệt đối trung thành với tổ quốc và đặt quyền lợi tổ quốc trên hết.
  9- Tuyệt đối tôn trọng người già, phụ nữ và trẻ con.
 10- Bình Đẳng được coi là một nhân quyền bất khả xâm phạm.
            C- Kết Luận :
Cách Mạng Tình Thương Việt Nam xây dựng trên quyền Bình Đẳng giữa con người với con người trong xã hội ở mọi lảnh vực với trọng tâm Kinh Tế Bình Đẳng. Quan hệ sãn xuất là quan hệ giữa Chủ và Cộng sự viên trên nguyên tắc "Anh có của, Tôi có công. Chúng ta cộng tác sãn xuất và cùng hưởng lợi". Mọi người dân có quyền chia phần mọi tài nguyên quốc gia và có bổn phận bảo vệ nó trong thời bình cũng như trong thời chiến. Mọi người dân phải tuyệt đối trung thành với tổ quốc và đặt quyền lợi tổ quốc trên quyền lợi cá nhân. Người già, phụ nữ, trẻ con và người yếu phải được tôn trọng. Mọi tư tưởng đều được tôn trọng ngoại trừ tư tưởng phản Bình Đẳng Xã Hội Chủ Nghĩa và làm suy đồi giá trị đạo đức con người. Mọi tôn giáo đều được tôn trọng như nhau.
Cách mạng tình thương Việt Nam sẽ mở ra một nền văn minh nhân loại mới trong thanh bình vỉnh cửu trong đó người bốc lột người chấm dứt vỉnh viễn. Việt Nam khởi sự một chu kỳ mới Chu kỳ Đạo Đức  trong đó quyền bình đẳng giữa con người với con người được triệt để tôn trọng.
Ta thấy truyền thuyết thần thoại Mẹ Âu Cơ và Cha Lạc Long Quân dẫn đến thuyết Bình Đẳng Xã Hội Chủ Nghĩa sau khi được giaỉ mã. Nó minh chứng cho cái quan niệm của Augustin Thière về truyền thuyết thần thoại "những nhân vật, những chứa đựng trong truyền thuyết là sản phẩm đúc kết biết bao suy tư của một thời đại tạo dựng độc sáng nhưng nó còn chờ người đời sau diễn đạt bằng ngôn từ minh nhiên lý giải".
Một dân tộc chủ thể của nền Văn Hóa Hòa Bình và đã đóng góp vào nền văn
minh Kim tự tháp Yonaguni trên thềm Nanhailand 8.000 BC chìm sâu dưới lòng đại dương Đông Nam Á đã để lại cho con cháu một chính sách đáp ứng nguyện vọng căn bản nhất của con người và được diễn đạt minh bạch trong chủ thuyết Bình Đẳng Xã Hội Chủ Nghĩa. Chủ nghĩa này như thanh bảo kiếm vô hình , uyển chuyển như mây như gió, nhưng sắc bén mầu nhiệm, tiêu diệt giai cấp thống trị tàn bạo vô nhân đang giam cầm con người dưới gông cùm nô lệ bằng những vũ khí có sứ tàn sát tập thể vạn năng. Nó sẽ đem ánh sáng văn minh Văn Lang soi sáng khắp năm châu bốn bể để giúp con người vùng lên tự giải phóng và lập lại một nền hòa bình vỉnh cửu trong đó con người sống bình đẳng và tự do trong tình thương nhân loại.
                                                            Việt Nam thế kỷ 21
                                                  Nhóm tiền phong con nước Việt.   

No comments:

Post a Comment